Lịch sử và phát triển thị trường Nghĩa vụ nợ thế chấp

CDO đầu tiên được ngân hàng hiện nay không còn tồn tại là Drexel Burnham Lambert Inc. phát hành năm 1987 cho Imperial Savings Association, một tổ chức tiết kiệm sau này cũng đã mất khả năng chi trả và được tiếp quản bởi Resolution Trust Corporation ngày 22 tháng 6 năm 1990.[3][4][5] Một thập kỷ sau, các CDO nổi lên như khu vực phát triển nhanh nhất của thị trường chứng khoán tổng hợp được đảm bảo bằng tài sản. Sự tăng trưởng này có thể phản ánh sự hấp dẫn ngày càng tăng của CDO đối với một lượng ngày càng tăng các nhà quản lý tài sản và các nhà đầu tư, hiện nay bao gồm các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ, các đơn vị tín thác, các tín thác đầu tư, các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, các nhà quản lý quỹ hưu trí, các tổ chức hoạt động ngân hàng tư nhân, các CDO khác và các phương tiện đầu tư cấu trúc.

Các CDO cung cấp hoàn vốn đôi khi cao hơn 2-3 điểm phần trăm so với trái phiếu công ty với xếp hạng tín dụng như nhau. Nhà kinh tế Mark Zandi của Moody's Analytics đã viết rằng các yếu tố khác nhau đã giữ lãi suất thấp trên toàn cầu trong những năm CDO tăng trưởng khối lượng, do những lo ngại về tình trạng giảm phát, sự bùng nổ của bong bóng dot-com, suy thoái kinh tế Mỹ, và thâm hụt thương mại của Mỹ. Điều này làm cho các CDO Mỹ được hỗ trợ bởi các khoản vay thế chấp trở thành một khoản đầu tư tương đối hấp dẫn hơn so với, chẳng hạn như, trái phiếu kho bạc Mỹ hoặc các đầu tư an toàn, lợi suất thấp khác. Việc tìm kiếm lợi suất này của các nhà đầu tư toàn cầu làm cho nhiều người mua các CDO theo sự tin tưởng vào xếp hạng tín dụng mà không có sự hiểu biết đầy đủ các rủi ro.[6]

Phát hành CDO đã tăng từ khoảng 20 tỷ USD vào quý 1 năm 2004 đến mức đỉnh trên 180 tỷ USD vào quý 1 năm 2007, sau đó giảm trở lại dưới 20 tỷ USD vào quý 1 năm 2008. Hơn nữa, chất lượng tín dụng của các CDO giảm từ 2000-2007, vì mức độ nợ vay thế chấp dưới chuẩn và không chuẩn khác tăng từ 5% lên 36% các tài sản của CDO; nhưng các xếp hạng tín dụng của các CDO này không thay đổi.[7] Ngoài ra, các đổi mới tài chính như hoán đổi rủi ro tín dụng và các CDO tổng hợp cho phép đầu cơ trên CDO. Điều này đã làm tăng mạnh lượng tiền di chuyển giữa các thành viên tham gia thị trường. Trong thực tế, nhiều hợp đồng bảo hiểm hoặc đặt cược có thể được xếp chồng lên nhau trên cùng một CDO. Nếu CDO không thể thực hiện theo các yêu cầu được thỏa thuận, một bên đối tác (thường là ngân hàng đầu tư lớn hay quỹ phòng hộ) đã phải trả cho bên kia. Michael Lewis gọi đầu cơ này như một phần của "Doomsday Machine" (cỗ máy tận thế) đã góp phần vào sự thất bại của các tổ chức ngân hàng lớn và các quỹ phòng hộ nhỏ hơn, tại cốt lõi của cuộc khủng hoảng vay thế chấp dưới chuẩn.[8] Có những cáo buộc rằng ít nhất một quỹ phòng hộ khuyến khích việc tạo ra các CDO chất lượng kém để các cá cược có thể được thực hiện đối với chúng.[9][10][11]

Sự sẵn sàng tạo ra CDO và bán chúng cho các nhà đầu tư cũng có thể phản ánh biên lợi nhuận lớn hơn mà các CDO cung cấp cho các tổ chức khởi tạo ra chúng, chẳng hạn như các ngân hàng đầu tư lớn và các thành viên khác trong hệ thống ngân hàng bóng tối, cũng như trong hệ thống ngân hàng lưu ký truyền thống. Lợi nhuận của các ngân hàng đầu tư và cơ quan xếp hạng tín dụng tăng mạnh trong những năm dẫn đến cuộc khủng hoảng.[12] Từ 2000-2006, tài chính cấu trúc (trong đó bao gồm CDO) chiếm 40% doanh thu của các cơ quan xếp hạng tín dụng. Trong thời gian đó, một cơ quan xếp hạng tín dụng lớn đã tăng cổ phiếu của nó gấp sáu lần và thu nhập của nó đã tăng 900%.[13]

Hơn nữa, các ngân hàng lưu ký sử dụng các CDO là một hình thức chứng khoán hóa, có nghĩa là ngân hàng không phải nắm giữ các khoản vay nó đã tạo ra trên sổ sách của mình và có thể chuyển chúng (cùng với rủi ro liên quan) cho các nhà đầu tư. Điều này cho phép các ngân hàng cho vay một lần nữa, mà vẫn giữ được sự phù hợp với các yêu cầu pháp luật về vốn và tạo ra các phí khởi lập hồ sơ bổ sung.

Một yếu tố khác trong sự phát triển của các CDO là giới thiệu năm 2001 của David X. Li về các mô hình đoạn nối Gauss, cho phép định giá nhanh chóng các CDO.[14][15]

Vào cuối năm 2005 hãng nghiên cứu Celent ước tính quy mô của thị trường CDO toàn cầu ở mức 1,5 nghìn tỷ USD và dự báo rằng thị trường sẽ tăng lên gần 2 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2006. Các CDO tổng hợp cũng mở rộng trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, Alan Greenspan, người sau này đã giải trình về các nguy cơ trước đây không được công nhận của các công cụ này trong lời khai của ông trước ủy ban điều tra của Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 07 Tháng 4 năm 2010.[16]

Khối lượng phát hành CDO toàn cầu[17]
NămTỷ USD
2004157,4
2005251,3
2006520,6
2007481,6
200861,9
20094,3
20108,0

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nghĩa vụ nợ thế chấp http://www.businessspectator.com.au/bs.nsf/Article... http://www.abalert.com/Public/MarketPlace/Ranking/... http://www.bionicturtle.com/how-to/article/cash_co... http://infoproc.blogspot.com/2005/09/gaussian-copu... http://noir.bloomberg.com/apps/news?pid=newsarchiv... http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601087&re... http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601109&si... http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601109&si... http://goldnews.bullionvault.com/files/Investment_... http://www.celent.com/PressReleases/20051031/CDOMa...